1. Đây là mấy dòng chia sẻ tôi ghi lại từ những ký ức về thầy, Trưởng lão Giác Dũng.
2. Trưởng lão Giác Dũng không viết như một người sáng tác hay nghiên cứu. Thỉnh
thoảng thầy có viết những câu thơ kệ. Trong trường hợp cần lắm, thầy mới bảo học
trò chấp bút cho thầy. Sau này, có người thấy pháp tu của thầy hay quá, nếu
không ghi lại, người đời sau không học được thì uổng lắm. Vì vậy, cũng có người
qua cách hầu chuyện thầy, hỏi để thầy nói, rồi viết lại thành văn, dưới đó để
tên thầy. Đây là một cách đem kinh nghiệm của thầy chia sẻ cho người khác rất
hay và bổ ích. Tuy nhiên, khi đọc những bài dạng đó, ngoài những đệ tử thân cận
với thầy, khó ai biết được đâu là ý thầy đâu là ý người chấp bút thêm vào. Khi
đó lợi hại khó phân. Tôi phát hiện ra điều này năm 2008, khi tôi hiệu đính một bài như thế cho một tập san Phật giáo.
3. Có hai lần thầy bảo tôi chấp bút mà tôi nhớ nhất. Đó là một
lần cho sinh và một lần cho tử. Sinh là lần thầy dạy ghi bài văn dạng biền ngẫu
chúc mừng sinh nhật một phật tử lão thành tại Thành phố Buôn Ma Thuột. Tử là lần
thầy kể về hòa thượng Giác Nhu để ghi thành bài nhân kỷ niệm một năm hòa thượng
Giác Nhu viên tịch. Tử thì nhớ mà sinh đã quên.
4. Chấp bút cho thầy là hạnh phúc của tôi. Việc này
dễ mà không dễ. Dễ ở chỗ thầy bảo sao làm vậy, nói sao viết vậy.
Nhưng hiểu được ‘vậy’ của thầy là rất khó. Thầy hầu như rất ít khi
dùng từ ngữ hoa mỹ. Nhưng khi lời nói của thầy được viết thành văn,
thì sự diễn đạt đôi khi phải cần văn vẻ. Đó không đơn giản là cái
cần của người viết và người đọc, mà là cái rất cần của lối văn
viết với nhiều ngôn từ của văn nói. Tôi chẳng hiểu điều này cho đến
khi tôi đọc Nguyễn Ngọc Tư. Khó nhất khi chấp bút cho thầy là sau
những chỗ diễn đạt văn hoa bóng bẩy một chút, phải chờ một hồi lâu
mới nghe tiếng ừm đặc giọng của thầy với cái gật đầu nhẹ. Những
lúc ấy, dù không chắc là diễn đạt như thế có hoàn toàn đúng ý thầy
chưa, nhưng tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Đó là hạnh phúc của người
chấp bút. Cứ mỗi lần nhớ lại tiếng ừm đặc giọng của thầy, tôi mới thấy
các trường hợp hầu chuyện với thầy kiểu phỏng vấn ngầm, thầy nói, rồi ghi lại,
hoặc ghi âm rồi phiên tả lại, và đăng báo, không hỏi lại ý thầy, nguy hại làm
sao.
5. Nói về người đã ra đi, hòa thượng Giác Nhu, thầy xem như
một thoáng hoài niệm, theo từng bước chân và nhịp thở. Thầy nói chuyện đồng
cam cộng khổ, giai đoạn khó khăn. Thầy nói chuyện còn phiền não khi
tu tập, được thanh tịnh khi tinh tấn. Thầy nói chuyện tu giới định
huệ, giản dị mà cốt lõi. Thầy nói chuyện cuộc đời giản dị và tinh
thần phụng sự. Thầy nói chuyện đi làm Phật sự không hề mệt mỏi. Thầy
nói về hạnh nguyện độ sanh vững chắc, hạnh nguyện ‘còn nước còn tát’ thể hiện
ý chí kiên cường. Thầy nói chuyện về người mà thầy đang nói đến như
“một thoáng trong tôi” của thầy. Một thoáng ấy nay quý vô cùng. Một
thoáng ấy đã thực sự có trong thầy. Đó là một thoáng như vẫn còn
hoài. Sau 15 năm, nay tôi mới có dịp đọc lại lời thầy mà mình đã
ghi. Niềm vui có được theo những con chữ dường như không phai. Mỗi câu
văn như một kỷ niệm đẹp. Những câu văn vẻ có ý, đọc lại thấy cũng
hay hay, nhưng những bài học quý thì chỉ đọng lại trong những lời
mộc mạc của thầy. Ghi lại những lời đã chấp bút cho thầy, tôi chợt nhớ lời
kinh Nikaya nói về đức Phật: Ngài nói điều ngài làm và làm điều ngài
nói; cái gì cốt lõi thì còn hoài... 15 năm trước những điều ấy đến
với thầy chỉ là một thoáng, mà với thầy, đó là một thoáng hòa
theo từng bước chân và nhịp thở. 15 năm sau, một thoáng ấy là nguồn
hạnh phúc của người chấp bút và của bao người đã từng một thoáng
được chắp tay bên thầy.
6. Đây là nguyên văn bài viết duy nhất ghi lại theo lời thầy dạy
chấp bút, đăng trong kỷ yếu Hòa thượng Giác Nhu, 1998. Xin chia sẻ cùng bạn.
Giác Kiến
~~~~~~~~~~~~
Ảnh chụp cùng với Thầy tại Chùa Một Cột, Hà Nội |
Một thoáng trong tôi
Mùa an cư Kiết hạ Pl. 2542 (Dl.1998), Mậu Dần
Sáng nay một buổi sáng đẹp trời, mùa an cư kiết hạ PL. 2542.
Sau giờ chúng tăng tại đạo tràng tịnh xá Ngọc Quang học chơn lý, quyển Đại thừa
giáo, trên đường về cốc, bỗng dưng một thoáng hồi niệm đã đến với tôi hòa theo
từng bước chân và nhịp thở.
Dẫu “một thoáng…”, nhưng hình ảnh cố Đại lão Hòa thượng Giác
Nhu đã hiện rõ trong ký ức như nhắc nhở với tôi rằng “ gần đến lễ tiểu tường”,
những hình ảnh cao quý ấy đã làm hồi ức tôi sống lại qua cuộc đời, công hạnh, đức
độ và sự giáo hóa chúng sanh của ngài….
Ngài cố Đại lão Hòa thượng Giác Nhu, một trong những thành
viên đầu tiên trong quá trình thống nhất Phật giáo Việt Nam – Phó chủ tịch Hội
đồng Tri Sự (nhiệm kì I:1981-1987) – Phó pháp chủ Hội đồng chứng minh (nhiệm kỳ
II, III: 1987-1997) Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Chứng minh Đạo sư Hệ phái Khất
sĩ. Ngài đã từng đồng lao cộng khổ, lèo lái con thuyền Giáo hội Phật giáo Việt Nam vượt qua giai đoạn
khó khăn bằng tất cả công sức và trí tuệ trong tinh thần phụng sự “ Đạo pháp –
Dân tộc – chủ nghĩa xã hội”.
Một ấn tượng rõ nhất đối với tôi là hạnh nguyện độ sanh
không biết mệt của ngài. Đó là những năm tỉnh Đắc Lắc có Phật sự: một lần thượng
tọa Giác Thanh cung thỉnh Ngài lên chứng minh lễ tôn tượng Bồ Tát Quán Thế Âm tại
tịnh xá Ngọc Nguyên, rồi một lần khác, Ni sư Phan Liên lại cung thỉnh Ngài lên
chứng minh lễ khánh thành tịnh xá Ngọc Thành.
Ba lần lên Cao Nguyên chứng minh đại lễ và cũng ba lần, Tăng
ni phật tử cao nguyên Ban Mê Thuột được tiếp cận để nghe lời giáo huấn của
Ngài. Vì kính đạo và ngưỡng mộ đạo phong của Ngài, Phật tử Thiện Tâm đã phát bồ
đề tâm thiết lễ trai tăng tại tư gia, cung thỉnh Ngài về chứng minh chú nguyện
kỳ an, nên toàn gia đình đồng nhất tâm tin tưởng Phật pháp, tinh tấn tu hành, rạng
danh Phật tử.
Trong những lần Cố Đại lão Hòa thượng lên Cao Nguyên làm Phật
sự, đường từ TP Hồ Chí Minh đến Buôn Mê Thuột dài 650 km, đèo dốc quang co, đường
xá gập gềnh. Hơn nữa thân tứ đại đã quá “thập cổ lai hy”, thế mà khi Tăng Ni Phật
tử vấn an sức khỏe thì Ngài đều hoan tươi cười, nói : “Tôi đi làm Phật sự không
hề thấy mệt mỏi”
Ôi! Quý kính thay ! Một lời nói tỏa ra ý chí kiên cường, một
hạnh nguyện độ chúng sanh vững chắc, một hạnh nguyện “còn nước còn tát” của
Ngài. Dẫu tuổi già sức yếu nhưng còn chúng sanh đau khổ, còn người chưa giác ngộ,
còn Phật tử đang cần thì Ngài vẫn còn hoan hỷ ra đi. Việc làm và lời nói của
Ngài đã để lại cho đời, cho Đạo một tấm gương sáng chói, một đạo hạnh chơn thường,
một cuộc đời giản dị, đáng khích lệ cho hàng hậu học thọ học, noi theo.
Có lần tôi được hầu thăm và thọ giáo với Cố Đại lão Hòa Thượng
tại tịnh xá Trung Tâm, Ngài hỏi tôi: “Sư có thường học Chơn lý không? Sư tu
pháp môn gì? Chứ tôi thì tu Giới – Định – Huệ, tu Giới – Định – Huệ là để giải
thoát… mà phải nhớ cho được là nếu chưa đạt được Tam vô lậu học thì khó được
thanh tịnh và còn phiền não thì việc giáo hóa độ sanh khó thành”.
Ôi! Một lời giản dị mà thật cốt lõi. Tam vô học diệu huyền,
thần thông, tự tại đối với những ai chân thật hành trì. Thật là:
Đã
bao lần Ngài lên Đắc Lắc
Để
viên thành Phật sự, cùng sách tấn Tăng Ni
Dù
đường xa khập khỉnh khó đi
Chí
độ sanh không hề mỏi mệt.
Đôi dòng tưởng niệm kính dâng Giác linh Cố Đại lão Hòa Thượng
Thượng NHU Hạ GIÁC thùy từ chứng giám.
Tỳ kheo Giác Dũng
No comments:
Post a Comment